Mặc dù tôm hùm trong môi trường tự nhiên và nuôi nhốt được tiếp xúc với nhiều loại vi sinh vật, danh sách các bệnh mà chúng được ghi nhận là chủ đề không quá phức tạp. Tuy nhiên, danh sách chắc chắn sẽ dài ra khi các nghiên cứu về tôm hùm vẫn tiếp tục và đặc biệt là khi các nỗ lực nuôi tôm hùm được tiến hành. Tôm hùm nuôi chung với các loài giáp xác lớn và sống lâu khác dường như trang bị hợp lý để đối phó với hầu hết các tác nhân lây nhiễm dẫn đến gây hậu quả nghiêm trọng cho tôm.
Mục Lục
Bệnh đỏ thân
Dấu hiệu bệnh lý và tác hại của bệnh
Bệnh đỏ thân bắt gặp ở mọi kích cỡ tôm nuôi, cả tôm thương phẩm và tôm con; nhưng thường xảy ra ở giai đoạn tôm con. Tôm bệnh có hiện tượng đỏ vùng giáp đầu ngực hay vùng bụng, sau đó màu đỏ lan dần ra toàn bộ cơ thể tôm, mô gan tuỵ bị hoại tử, các khớp đôi chân bò rời ra, đôi râu xúc tu 2 dễ gãy, mặt bụng tôm tím bầm, tôm yếu dần, bỏ ăn và chết.
![Bệnh đỏ thân](https://tomloe.com/wp-content/uploads/2021/10/1-min-12.jpg)
Khi lặn xuống lồng nuôi quan sát, thấy tôm hoạt động không nhanh nhẹn. Bệnh xảy ra nhiều từ tháng 2-8 hàng năm, có khả năng gây chết tôm hùm nuôi từ rải rác đến hàng loạt, tỷ lệ chết tích lũy có thể lên đến 80-90%. Năm 2007, thiệt hại cho ngành thủy sản do bệnh đỏ thân gây ra ở các tỉnh miền Trung (Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận) lên đến gần 10 tỷ đồng.
Tác nhân gây bệnh
Bệnh đỏ thân có thể là sản phẩm tổng hợp; của nhiều nhân tố gây bệnh tác động vào tôm nuôi. Trong đó, vi khuẩn nhóm Vibrio, đặc biệt là vi khuẩn Vibrio alginolyticus, có thể là một trong những tác nhân gây ra dấu hiệu bệnh đỏ thân ở tôm hùm. Vi khuẩn này có dạng hình que, bắt màu gram âm; có khả năng vận động, khuẩn lạc trên môi trường TCBS có màu vàng.
Tôm hùm nuôi bị bệnh sữa và cách chữa trị
Khi phát hiện tôm hùm bị bệnh sữa, cần tách và tiêu hủy các cá thể bị bệnh nặng; chỉ giữ lại những cá thể còn ăn được thức ăn để tiến hành điều trị. Cho tôm ăn thức ăn trộn với kháng sinh Tetracyclin; có bổ sung hoạt chất sinh học và chất kết dính. Cách làm như sau: Chọn thức ăn tươi sống (cá liệt, cá sơn, cá mối…) và cắt thức ăn thành từng miếng nhỏ phù hợp cỡ miệng tôm theo từng giai đoạn nuôi (Lưu ý: rửa thức ăn bằng thuốc tím nồng độ 2 – 3 ppm và để ráo thức ăn trong 10 phút trước khi cắt thành miếng nhỏ).
Trộn thức ăn với thuốc kháng sinh Tetracyclin, hoạt chất sinh học (MOS) và chất kết dính (Binder) theo tỷ lệ 5,0 g kháng sinh + 5 g hoạt chất sinh học + 5 g chất kết dính/1 kg thức ăn. Cho tôm ăn thức ăn đã trộn thuốc liên tục trong 7 ngày, mỗi ngày 1 lần vào 17 – 18 giờ. Sau 7 ngày dùng thuốc, nếu thấy tôm vẫn còn bệnh thì tiếp tục cho tôm ăn thức ăn có trộn thuốc trong vòng 3 ngày, mỗi ngày 1 lần vào lúc 17 – 18 giờ (trộn thức ăn như hướng dẫn ở trên nhưng giảm một nửa lượng kháng sinh Tetracyclin: tỷ lệ 2,5 g/1 kg thức ăn).
![Tôm hùm nuôi bị bệnh sữa](https://tomloe.com/wp-content/uploads/2021/10/2-12.jpg)
Bệnh đen mang trên tôm hùm nuôi
Nấm Fusarium sp. là một trong những tác nhân gây nên dấu hiệu đen mang ở tôm hùm nuôi lồng. Đây là nấm dạng sợi phân nhánh; bào tử không màu sắc (gọi là bào tử đính) gồm bào tử đính nhỏ và bào tử đính lớn. Cuống bào tử thường kết cụm và sản sinh bào tử. Sử dụng Formaline 100 – 200 ppm tắm cho tôm trong thời gian 10 – 15 phút mỗi ngày; (dùng trong 2 – 4 ngày) để điều trị bệnh. Tách riêng những con tôm có dấu hiệu bệnh (cho vào các thùng chứa để điều trị) nhằm giảm thiểu sự lây lan mầm bệnh cho cả đàn tôm và sẽ đơn giản hơn trong quá trình trị bệnh.
Thao tác bắt tôm lên điều trị phải nhẹ nhàng, tránh xây xát tôm; trước khi tắm tôm phải chuẩn bị tất cả các dụng cụ cần thiết; tránh trường hợp đưa tôm lên khỏi lồng mà chưa tiến hành điều trị ngay. Để phòng bệnh, cần vệ sinh lồng nuôi thường xuyên nhằm tăng lưu lượng dòng chảy qua lồng nuôi. Chuyển lồng nuôi đến địa điểm mới để tránh sự ô nhiễm cục bộ. Áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp như chọn địa điểm nuôi thích hợp; xa nguồn nước thải sinh hoạt hay nước thải công nghiệp/nông nghiệp, nền đáy không bị ô nhiễm; không đặt lồng sát đáy; vớt thức ăn dư thừa; sát trùng thức ăn (bằng thuốc tím…).