Giới thiệu các phương pháp kỹ thuật nuôi cá Lóc Bông trong ao như là chuẩn bị ao nuôi, theo dõi mùa vụ nuôi, cá giống và mật độ thả nuôi, thức ăn, cách thức quản lý và chăm sóc cá nuôi. Cá lóc là một giống cá dữ, ăn tạp và chủ yếu là ăn động vật và có kích thước thon dài. Chúng sẽ sinh sống phổ biến ở trong môi trường nước ngọt như là: kênh rạch, đồng ruộng, ao hồ, đầm, sông… Thậm chí những con cá lóc này còn thích nghi được trong môi trường ô nhiễm như là: nước đục, nước tù, nước lợ cửa sông. Vào những hôm thời tiết cực kỳ nóng nực, cá chịu được nhiệt độ nước trên 30 độ C.
Mục Lục
Đặc điểm sinh học của cá Lóc Bông

Cá lóc ưa thích những khu vực có rong đuôi chó, cỏ, bèo vì những khu vực này tập trung nhiều con mồi là nguồn thức ăn khoái khẩu của chúng. Mùa hè ấm áp, cá thường bắt mồi ở tầng nước mặt. Mùa đông lạnh, chúng thường hoạt động chủ yếu ở tầng nước sâu. Cá lóc nuôi thương phẩm nếu được chăm sóc và cho ăn đầy đủ sẽ lớn rất nhanh và đạt trọng lượng từ 0,8 -1,2 kg/con sau 6 tháng. Hiện nay, bà con có thể áp dụng rất nhiều mô hình nuôi cá lóc khác nhau như: nuôi cá lóc trong bồn nhựa, bể xi măng, bể lót bạt, ao đất… tùy vào điều kiện cụ thể nhưng vẫn cho năng suất cao.
Đặc điểm sinh sản của cá Lóc Bông
Cá thành thục khi được 23 – 24 tháng tuổi. Cá đẻ trứng nổi, thụ tinh ngoài. Khi sinh sản, chúng có tập tính ấp trứng và canh giữ trứng. Nên rất hung dữ trong giai đoạn này. Mùa vụ phát dục và sinh sản kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm. Tập trung vào tháng 6 – 7 dương lịch. Trong tự nhiên, mùa sinh sản thường từ đầu đến giữa mùa mưa, khi nước lũ về ngập các cánh đồng thì cá bắt cặp, làm tổ và tiến hành sinh sản. Cá đẻ tái phát dục 3 – 4 lần trong năm. Cá có kích cỡ 3- 4kg, có lượng trứng từ 7.000- 15.000 trứng. Cá đực, cái ghép cặp và đẻ trứng trong tổ và bảo vệ tổ trứng rất kỹ, cho đến khi cá con đã có thể sống độc lập và chủ động bắt mồi.
Chuẩn bị những gì cho ao nuôi cá?
Ao nuôi cá lóc bông có diện tích từ 500 m2 trở lên. Độ sâu từ 1,5 – 2 m, bờ ao phải cao và chắc chắn. Cống thoát nước có khẩu độ lớn để thoát nước dễ dàng. Trước khi thả nuôi cá, ao được tát cạn, vét bùn đáy, tu sửa chổ sạt lở, lấp hết lỗ mọi quanh ao. Rải vôi đáy ao từ 10 – 15kg/100 m2 ao, phơi đáy 2 – 3 ngày rồi cấp nước vào ao. Nguồn nước cấp cho ao phải chủ động, cấp thoát dễ dàng, nước không bị nhiễm phèn và mặn (pH phải từ 6,5 – 8,5, độ mặn dưới 5‰).
>>> Xem thêm về chuyên mục phương pháp nuôi thủy sản
Lựa chọn mùa vụ cá giống và mật độ thả nuôi

Có thể nuôi quanh năm. Cá giống thả nuôi có kích cỡ đồng đều, trọng lượng từ 15 – 20g/con. Cá khỏe mạnh, nhanh nhẹn, màu sắc sáng, cơ thể cân đối, nhiều nhớt. Trước khi thả xuống ao nuôi, cá giống được tắm nước muối nồng độ 3%. Nên thả cá vào lúc trời mát. Mật độ thả giống từ 25 – 30 con/m2.
Lựa chọn thức ăn và hình thức quản lý
Thức ăn cho cá nuôi: Thức ăn chủ yếu là cá tạp biển, cá vụn. Giai đoạn cá còn nhỏ trong 2 tháng đầu, thức ăn cần được xay nhuyễn hoặc băm nhỏ. Khi cá lớn, thì chỉ cần băm nhỏ hoặc cắt khúc những loại thức ăn có kích cỡ lớn hoặc quá dài. Khẩu phần ăn từ 3 – 5% trọng lượng cá trong ao. Cá càng lớn thì khẩu phần ăn cũng giảm dần.
- Thức ăn của cá được rải trên sàng ăn. Sàng ăn được làm bằng tre hoặc gỗ và được đặt ngập trong nước khoảng 10cm.
- Hệ số tiêu tốn thức ăn tùy thuộc vào chủng loại và chất lượng thức ăn. Với thức ăn cá biển (cá tạp), hệ số thức ăn trung bình từ 3,5 – 4 kg thức ăn/kg cá nuôi.
Quản lý môi trường ao nuôi: Hằng ngày theo dõi chặt chẽ mức độ ăn của cá để điều chỉnh kịp thời và hợp lý lượng thức ăn.
- Nước trong ao cần được thay đổi thường xuyên (1 – 2 lần/tuần). Mỗi lần thay 30 – 40% lượng nước trong ao.
- Thường xuyên theo dõi hoạt động của cá trong ao để kịp thời phát hiện những dấu hiệu lạ. Như cá bỏ ăn, bơi không bình thường, nhiễm bệnh… để có biện pháp chữa trị kịp thời.
Thu hoạch: Thời gian nuôi cá lóc bông trong bè từ 8 – 10 tháng, cá đạt cỡ 0,8 – 1,5kg/con. Tùy theo tăng trọng của cá và giá cả thị trường người nuôi có thể chủ động thu hoạch.
Trước khi thu hoạch 1- 2 ngày, giảm thức ăn và không nên cho cá ăn vào ngày thu hoạch.